Tam Nguyên
Thiên-Không
Thiên-không
thuộc Hỏa
Miếu
vượng ở Tỵ Ngọ Dần Mão.
Thiên-không
là sao hung, quý tinh và quyền tinh không nên gặp.
Nếu gặp thời
khoa trường lận đận, mà công danh trắc trở.
Nên ở phú
đoán : Hạng Vũ anh hùng ngộ Thiên-không nhi táng quốc.
Thạch-Sùng
hạn hành Địa-Kiếp nhi vong gia.
Hội với
Đao-hoa, là người có mưu trí, nhưng cơ nghiệp đổ vỡ.
Không Đào là
cách bản thiên triết sỷ, ví như chim bay lưng trời gãy cánh.
Cung Mạnh có
tam Không thủ chiếu, là cách đổ vỡ hay phải lập nghiệp, làm nhà ba lần được yên
thân.
Tam Nguyên
Đại-hao Tiểu-hao
Song
Hao thuộc Thủy.
Miếu
ở Mão Dậu - Vượng ở Tý Ngọ.
Lâm Mạnh hãm
địa, là người bé nhỏ, ưa thích cờ bạc, đam mê rượu chè.
Hội với Mã
Riêu, là tình như đáy giếng, hoang tàn, chỉ dong chơi mà pha bại tổ nghiệp.
Mâm Mạnh
Quan, cư Mão Dậu lại là văn tinh, rất
thông minh, lanh lợi, là người có tài tháo vát, lập nên cơ nghiệp.
Ở Quan-Lộc
thì đắc cách hơn Mạnh Thân.
Song Hao Mão
Dậu, chúng thủy triều đông, là các dòng nước đều chảy về phương đông, ví như
bốn đại dương cùng căn cứ hướng về Thái-Bình-dương, và đại dương này tương quan
địa cầu là đông vị.
Nước thủy
triều lên và xuống mỗi ngày, là do ảnh hưởng của mặt trăng thu hút, nên thủy
triều tháng nào cũng có 2 kỳ, con nước, là so thời gian 1 tháng của ta, bằng 1
ngày và 1 đêm của mặt trăng, và thời gian của thủy triều thăng giáng là do ngày
sóc, vọng, huyền, vị trí của trái đất tương quan với mặt trăng, đồng hành trên
quỹ đạo, mà mặt trăng trực tiếp ảnh hưởng đến địa cầu ta, là hành tinh cư đông
vị của trái đất.
Như vậy, nếu
các ngọn nước phải hướng về đông, là Hao miếu ở đó là chính lý.
Chúng thủy
là tất cả các dòng nước, phải đâu là chúng hỏa mà là Hỏa được.
Song Hoa
tượng ở thân thể là cái mũi. Nên song Hao cư Mạnh, mũi hơi bị hếch, lỗ mũi
hướng lên trời một chút.
Ở tướng học
gọi mũi này là mũi trư tụy (mũi heo).
Tam Nguyên
Tang
–Môn Bạch - Hổ
Tang-môn
thuộc Mộc.
Bach-hổ
thuộc Kim.
Miếu địa ở
Mão Dậu – Vương ở Dần Thân.
Hai sao
Tang-Hổ là bại-tinh, chủ hình thương, taïi nạn bệnh tật.
Tang-môn cư
Mão, ví như bằng sắc, hiệu lênh treo ở cửa nhà Trời.
Bạch-hổ cư
Dậu là cách Hổ khiếu tây phương
Hổ ở đây ví
như đã no, nên về hang nghĩ, không còn hung nguy, vì Dậu coi như thâm sơn cùng
cốc, không ai đặt chân tới, và Bạch-hổ Kim, Dậu là âm kim nên Hổ miếu là lý do
đó.
Kết hợp với
Đường-phù, Tấu-thư, ví như hổ mang hòm sắc đi đường xa, nên chẳng những anh
hùng, mà văieät nam chương nữa.
Kết hợp với
Phương-Long, Hoa-cái, thành bộ tứ Linh, có thể chấn át được hung tinh, nên lưu
hạn gặp tứ Linh thời không sợ hung hoạ.
Hội nhân,
thi cử, cầu công danh, mà gặp được tứ Linh là đắc cách.
Hội với
Hình, và Phi, thời nên tùy nơi miếu hãm mà luận đoán, vì taïi họa hay bỉ sự
cũng có thể đến một cách nhanh chóng được. Tang-Hổ hãm chủ phá bại tiền tài,
công danh, nhị bạn mà gặp thời buồn thương khổ tránh.
Lâm Mạnh
thời vẻ mặt không được tươi, u buồn, thường hay mắc chứng bệnh về phổi và ruột,
nhất là những chứng áp huyết, và đờm nhiệt mà sinh bệnh lao.
Hội với
Dương Đà, dễ bị yếu gân và các chứng kinh phong.
Đàn bà lưu
hạn, khi lâm bồn, mà Tang-Hổ gặp Lưu-hà, thời phải quan phông, khó tránh được
sự châm chích mổ xẻ.
Trái lại
Tang-Hổ miếu địa nhập Mạnh, là cách tứ phương cũng phục anh hùng, tính tình
cương dũng, văn võ song toàn mà lập nên nghiệp lớn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét