ÂM
DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH CỤC
Tam Nguyên
Cung Thiên bàn dùng để ghi Mạnh thuộc hành nào , nam nữ
thuộc Âmhay Dương , tuổi sinh thuộc cục nào , và để đánh dấu các cung lưu vận
niên từng năm.
Phân định Mạnh thuộc hành nào .
Tiên quyết phải xét Mạnh thuộc hành nào , thuộc kim , mộc
, thuỷ , hoả hay thổ , thử đến phân định xem hành ấy thuộc loại nào , sau đó
mới xét đến các sao trong cung Mạnh, xem sao nào hợp với lành của bản mạnh, và
xem sao ấy có đồng một bản chất , hay một tính lý với mạnh không , hay là sao ấy
khắc chế với mạnh , rồi sao mới họp các cung tam hợp , xung chiếu , và nhị hợp
lại ,để xét toàn thể tinh mạnh .
Thí dụ biết mạnh thuộc Mộc, nhưng là mộc nào.
1) Đại
làm mộc là thứ mộc rất to lớn , ví như cây da, cây đề ở đình chùa.
2) Mộc
thuộc dương liễu mộc là thứ cây cũng to lớn, mà ta có thể dùng gỗ để làm nhà
cửa.
3) Mộc
thuộc tùng bách là loại kém bàng dương liễu, thí dụ gỗ chỉ làm đồ dùng.
4) Mộc
thuộc bình địa mộc là loại cây ta , thường thấy ở vươn ấp chẳng hạn.
5) Mộc
thuộc tang già mộc là thứ cây dâu, lá dùng để nuôi tầm.
6) Mộc
thuộc thạch lưu mộc là thứ cây như cây lựu trồng để làm kiểng chơi.
Qua
các thí dụ trên , căn cứ vào bài lục thập hoa giáp là 1 vòng 60 năm , ta thấy
mộc là cây, nhưng cây có nhiều loại khác nhau , không đồng bản chất và tính lý,
thì không ở chung được với nhau.
NGUYÊN
TẮC PHÂN ĐỊNH
1) Đồng
vị, đồng tính ,cư đồng gia.
2) Bất
đồng vị , bất đồng tính , bất cư đồng gia.
(cùng
bản chất cùng tính lý có thể ở chung nhau một nhà)
(Không
cùng bản chất và tính lý không thể ở chung với nhau được).
Thí
dụ về việc phân loại mộc này.
Tại sao ở
rừng ta nhận thấy khu này là rừng tre,lồ ồ, thì toàn là tre và lồ ồ, ta ít khi
thấy một cây loại khác tre, hay lồ ồ, có thể ở giữa rừng tre, lồ ồ được , giả
thử có 1 ,2 cây khác loại , dù là cây sao hay dầu , là thứ cây sinh trưởng rất
mau, rất lớn cũng không thể có được, nếu có cũng chỉ là cây cong queo , làm củi
mà được thôi.
Tìm
hiểu về nguyên lý sẽ thấy trước hết , đất này đã hợp cho loại tre , loại lồ ồ,
vả Chăng khi tre và lồ ồ đãolớn , thân khí và các thứ khí khác của tre , lồ ồ
phát ra ,thì chỉ có đồng loại của nó mới có thể sinh trưởng được thôi , các
loại cây khác sẽ bị khắc chế mà tiêu diệt.
Không
cần nói chi tới loại tre và lồ ồ , là thứ cây còn lớn ,ngay khu rừng nào là khu
cỏ tranh yếu ớt , cũng thấy toàn thể là cỏ tranh cả.
Phải
chăng đây là định luật của loài thảo mộc .Sau khi hiểu được định luật đồng nhị
dị (cùng mà khác) của mộc loại, là đã đồng thời hiểu ra hành còn lại.
ĐỊNH
LUẬT ÁP DỤNG
Kỳ
cố hà dư như :lưỡng hoả thành Viêm.
Lưỡng Hoả Hoả
Tuyệt.
(tại
sao như thế , hai hoả gặp nhau thành đám cháy lớn , cũng hai hoả gặp nhau mà
hoả bị tuyệt).
Vì
lửa sấm sét trên trời (tích lịch hoả)với lửa ở hoả lò , là lửa đun bếp (lò
trung hoả)thời gặp nhau làm sao để mà sinh hoá được , nếu sét đánh vào đám lửa
đun bếp , thì đương nhiên sẽ tắt hết lửa ngay.
Cùng một định luật này, áp dụng cho 3 hành
còn lại kia , là về phương diện sinh hoá và diệt vong.
Áp
dụng hành Kim , lưỡng kim kim khuyết .
Hành Thổ, lưỡng thổ
thổ duyệt.
Hành Thuỷ, lưỡng thuỷ thuỷ kiệt.
Trên
đây là sự sinh khắc cùng một loại với nhau .
Dị biệt ngũ hành khắc sinh
Lại còn sự khắc và sinh của các hành khác đối kháng cùng nhau nữa .
Thí
dụ như nước và lửa là 2 loại thuộc ngũ hành cá biệt nhau , lửa không thể ở gần
nước đựơc , vì thuận lý thì thuỷ khắc hỏa, lửa đi lên mà nước thì lắng tụ
xuống.Nhưng ngược lại nếu muốn có nước vệ sinh để dùng , phải đun sôi lên ,
nước mới thuần khiết và đắc dụng.
ĐỊNH
LUẬT ÁP DỤNG
Kỳ
cố hà dư, như Thuỷ Khắc Hoả
Vô Hoả bất thành Thuỷ
(tại
sao như thế nước khắc chế lửa, mà không có lửa ,lại không thành thuỷ.)
SINH
KHẮC KIM VÀ MỘC
Thí dụ như Kim(sắt) khắc chế Mộc, lấy dao,cưa
, búa chặt thì cây chết, nhưng nếu không có Kim là búa , chẳng đục để đẽo gọt,
chạm tỉa , thì gỗ kia đâu có thành được những tủ xưa , những bộ sa-lông quý giá
, hay là đình chùa nguy nga lộng lẫy được.
Hiểu
được 2 thí dụ trên tất sẽ dùng được nguyên tắc để xét đoán , Kim nào khắc Mộc
nào là được việc, và áp dụng về Kim,Mộc như sau:
Kỳ
cố hà dư, như kim khắc Mộc
Vô kim bất thành
Mộc.
(tại
sao như thế sắt là thứ khắc Mộc, mà không có sắt thì mộc lại không thành).
Vậy
nên suy ra chẳng hạn như kim mà khắc mộc tang giá , hay là mộc rau muống , ấy
là mộc chiết , mà còn hết luôn đời vậy.
Tam Nguyên
Mạnh
hành và tinh đầu hành
Trên đây là một định luật chung cho ngũ hành,
nên đã phân định được, hoặc sao chỉnh tinh, hay là một sao nào hợp với hành của
mạnh, thời nên xét đóan xem sao đó đối chiếu với hành của bạn mạnh sinh khắc ra
sao, để luận trình độ nhiều ít về xấu tốt.
Nếu mạnh và sao cư mạnh đồng một hành với
nhau, thời ông sao đó mới chính là của mình, tức là của mạnh.
Người có sao cư cung mạnh cùng với một bản
Mạnh, nên không bị khắc chế bởi hung sát tinh mà còn được các điều phù trì tất
sẽ hưỡng danh tài hưng vượng, và đức tính mới chính là bậc quân tử, có thể hòan
tòan tinh cậy không thể có tâm hồn sảo trá tiểu nhân được.
Về đầu số có 14 chính tinh luân chuyển trên
12 cung mà thôi, cáhi khó khăn là ở chỗ đó, vì trong 12 cung chi có 3, 5 cung
là vô chính điệu, còn các cung kia không sao này thời sao kia, 1 ngày 1 giờ,
trong một quốc gia nhỏ bé này cũng sinh sản ra bao nhiêu trẻ em, mà những người
đạt phú quý và tri thức song tâm hồn phúc thiện ích quốc lợi dân lại là phần
khác, nên trước mặt nhà lý số có kể đâu là Tử-vi cư Ngọ, Thiên-phủ lâm Tuất,
Thất-sát Dần Thân, Phá-quân Tý Ngọ mà bảo, nhất hô bá mặc, cự-phú, đôi kim tích
ngọc, hay tứ phương cũng phục anh hùng, trái lại còn cười thầm, và biết đây là
ôn gtướng đủ thứ, hay là chủ cai thầu đó thôi.
Nên nguyên lý của đẩu số, đều phải nhất luật
quay tròn xoáy chặt vào Can Chi, mà vòng lục thập hoa giáp là minh chứng tỏ
tường, định sẵn cái Hành nhất định của
tuổi sinh, không một nhà thuật số nào chối bỏ được, cứ 60 năm tinh tú mới chuyển hết 1 chu kỳ, nên
cũng Tử-Phủ Vũ Tướng, mà người này phúc hậu, kẻ khác lại nam-trá, nên nhà Tử-vi
học có nhiều cách phê số thâm sâu, mà người hậu học và người có số không hiểu
chi cả.
Thí dụ như :
Thoát khí chi đồ.
hay
là : Cẩu thâu vị miễn.
Tức là kẻ lột áo người, hay là mình sẽ bị lột
áo.
Hay là chó cắn gẫy gối, chó cắn rách áo, chó
cắn trộm, phải chăng là khất cái chi đồ,
hay là loại đạo-chích cũng vậy.
Trên đây là những định lý riêng về ngũ hành
thuộc bản mạnh, quy luật sinh khắc của
các sao nên xem ở mục tinh đẩu.
Âm
dương lý
1) Sau
khi đã định được ngũ hành thuộc bản Mạnh,
tiếp đến nên nhận xét, xem dương số thuộc Âm Dương nam nữ để phân định các tam
hợp cục, xem các sao cư chiếu ở các cung tam hợp, thuận nghịch cho một lá số ra sao.
Về âm dương lý này, ta nên biết, 1 thí dụ khái niệm như con người, kẻ thuận tay mặt, tất
vị tay mặt sẽ tiện cho công việc hơn, kẻ thuận tay trái thì tay trái sẽ đắc lực
hơn, và như khoa học Tây – phương đã
chứng minh, ai thuận tay nào nên để người ấy làm việc tay ấy, vì do dảnh hưởng
cả bộ thần kinh tại óc, đã linh diệu về phía ấy hơn, trái nghịech với sự xếp
đặt thiên nhiên đó, sẽ bị kém nhạy cảm.
NGUYÊN
LÝ PHÂN ĐỊNH ÂM DƯƠNG
2) Vậy
xét về đường đi thuận nghịch, vãng phản của đương Tiên-thiên và Hậu-thiên xuyên
qua 2 cung Thìn Tuất, và 2 cửa ngõ đóng mở là 2 cung Mão Dậu, để sinh sinh hoa
hoá, thành các cá biệt ngũ hành, đã tựu thành sự phân chia thuận nghịch của các
tam hợp cục, thí dụ như Thân Tý Thìn là 1 tam hợp cục, đối với người Dương nam
Âm nữ, thì phải khởi từ cung Thân, tới cung Tý, tới cung Thìn là nơi cuối cùng,
cũng như một người đã về tới nhà mình vậy.
Đối với người Âm nam Dương nữ, thì nghịch lại
phải khởi từ cung Tý tới Thân và khi tới Thìn cung là nơi cuối cùng, đấy là sự
định lý âm dương, của 2 chữ Âm và Dương đã ghi trong cung Thiên-bản mà ta
thường không quan tâm tới.
MẠNH
CUNG TƯƠNG QUAN PHƯƠNG-VỊ QUY LÝ ÂM DƯƠNG.
3) Vì
quy luật Âm Dương, nên cung Mạnh sẽ rất quan trọng đối với cách giáp, và ngay
khi chỉ có một sao ở hai bên cung Mạnh.
Thí dụ Mạnh ngồi cung Dần, có sao Địa-kiếp cư
cung Sửu.
Người Dương nam Âm nữ khởi thuận hành, nên
mặt quay sang cung Mão, thì sự tác hại của Địa-kiếp sẽ nhẹ, vì Địa-kiếp ở sau
lưng.
Song với người Âm nam Dương nữ, khởi nghịch
hành, ví như trứơc mặt lúc nào cũng có tên côn đồ ám hãm mình vậy, cho nên duy
chỉ có một Địa-kiếp mà cuộc đời vẫn bị nhiều khổ hạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét